Ở gia súc Màu sắc động vật

Màu lông

Bài chi tiết: Giống bò
Một con bò lông nâu, chúng là màu phổ biến (màu da bò)

Màu lông và ngoại hình bò là đặc trưng loài, có mối liên hệ nội tại mật thiết với phân loại bò, xác định tuổi và tác dụng kinh tế, cung cấp căn cứ quan trọng cho gây giống, chăn nuôi và khai thác sử dụng các giống bò. Màu lông bò là tiêu chí quan trọng trong đặc trưng loài. như bò Hà Lan (Holstein) lông màu đen lang trắng, bò Jersey lông màu vàng nâu, bò Herefordbò Simmental có mặt trắng. Màu lông bò thường chia thành sáu loại: trắng, đỏ, đen, nâu, xám, sọc trắng và các biến thể.

Cơ chế di truyền màu trắng gồm ba loại:

  • Gen trắng trội WW: là lông trắng, ww là lông đỏ, Ww là màu cát (cát đỏ), thường thấy ở bò sừng ngắn Anh, Ww nếu mang gen màu đen B sẽ là màu lam xám hoặc gọi là lam cát (trên thực tế nso là màu trộn giữa đen và trắng), dưới ánh mặt trời sẽ nhìn thành màu lam xám.
  • Gen bạch hóa lặn cc: da, lông, mắt đều không có sắc tố như bò Hà Lan và Bò Hereford.
  • Toàn thân màu trắng chỉ có phần tai là đen: thường thấy ở bò vùng cao Thụy Điển, đây thực tế là hình thức phổ biến nhấy của bò sọc trắng.

bò sữa, bò thịt và lấy sữa, bò thịt, lớp lông phần lớn là có các sọc trắng ở mức độ khác nhau, ở bò sữa trắng đốm đen thường gặp, toàn bộ màu sắc được quyết định bở gen S, màu điểm được quyết định bởi gen ss, kích thước điểm màu chịu tác động của gen sửa chữa (repair), hình thức khác là lông hai bên cơ thể có màu, đường lưng và đường bụng (gồm cả phần trước ngực) có màu trắng, chân sau có màu trắng như bò Hereford, màu sắc do gen trội SG quyết định, còn có loài màu lông trắng ở mặt là do gen trội SH quy định; S, SG, SH, s là các alen, giữa S, SG, SH không trội hoàn toàn, nhưng đều trội át s.

Thông thường, ở màu lông bò, màu đen (B) trội át các màu khác; màu đỏ (r) lặn át các màu khác. Màu sọc trắng thông thường (s) lặn át với màu thuần, nhưng lại trội át các màu trắng dưới đây: màu trắng ở mặt bò Hereford, Bò Simmental (SH), màu trắng ở vùng chânbụng dưới của bò đen đốm trắng, màu trắng ở vùng thắt lưng Bò Belted Galloway. Các đốm đen nhỏ trên da trội (Ps), màu nâu đen (da hổ) lặn (br); màu chân sau trội át màu trắng chân sau (Pe), màu hồng phấn ở đuôi mắt và mũi trội (Re). Màu lông bò cũng liên quan đến hơn 1 cặp gen, tính trội lặn của nó cũng phức tạp. Màu đen (B) ở bò Angus trội át màu đỏ (b), còn loài bò sừng ngắn lại có màu đen đỏ (R) đều trội át màu trắng (W), dị hợp tử lf bò đỏ đốm trắng, chúng sẽ sinh ra thế hệ sau là bò lông đỏ (lông hung) và bò lông trắng.

Màu lông ngựa

Bài chi tiết: Màu lông ngựa
Màu lông ngựa
Ngựa hoang Mông Cổ với màu lông vàng nhạt nguyên thủy (hình trên) và một con ngựa hởi với màu lông vàng vàng điển hình (hình dưới)
Hồng mã
Một con ngựa hạc (ngựa kim) hình trên, và Một con ngựa bạch (bạch tạng)- Dominant White (hình dưới)
Một con ngựa lông đenMột con ngựa vằn châu Phi

Các giống ngựa có nhiều màu sắc do đó có những tên gọi khác để mô tả nhau tùy theo sắc lông. Hiện có rất nhiều màu kết hợp thành nhiều màu sắc khác nhau cho từng cá thể ngựa. Ngựa là loài có đặc tính di truyền màu lông, cho nên phải đặt ra một số từ để mô tả chúng. Ở ngựa có các màu lông cơ bản là hạt dẻ, hồngđen. Sự dịch chuyển màu của ba màu cơ bản là do hiệu quả tương tác của các alen cùng xuất hiện. Toàn bộ màu sắc phổ biến nhất được công nhận là nâu đỏ, đen, nâu, hạt dẻ (hồng), màu nâu xám, kem, Palomino (vàng và trắng), hoặc màu xám. Palomino là danh từ chung để chỉ loại ngựa có màu sắc trắng bạch kim óng ánh (gọi là ngựa kim, một dạng màu vàng trắng). Có nhiều con màu sắc có nhiều khoang (thường được gọi là đốm), sắc trắng và hồng (còn được gọi là ngựa sơn), loang nâu được phát hiện ở ngựa (ngựa Appaloosa).

Theo cách phân chia của phương Tây: Màu sắc con ngựa thường được xác định bởi các màu sau như: Màu Bay hay màu be (màu nâu đỏ sáng đến màu nâu tối), màu nâu thường (Brown), màu hạt dẻ/Chestnut (màu đỏ không có màu đen), màu gan/Liver (màu nâu rất tối), Sorrel (màu đỏ, giống màu sắc của một đồng xu mới), màu xám (lông đen và trắng hoặc màu trắng hỗn hợp), màu muối tiêu (Salt và Pepper) hoặc màu xám thép/"steel" gray (lông trắng và đen đều trộn lẫn trên hầu hết trên cơ thể), Dapple gray (màu tối đậm xen với màu xám nhẹ), Fleabitten gray (màu đỏ lấm tấm khắp lông), đốm hồng/Rose gray (màu xám với một màu hơi đỏ hoặc màu hồng nhạt pha với nhau).

Theo cách phân chia của phương Đông: Ngựa mà tuyền màu trắng gọi là ngựa bạch (lông toàn màu trắng), lông trắng có chen một ít đen gọi là ngựạ kim (lông màu trắng mốc), lông đen tuyền gọi là ngựa ô, đen pha tí chút đỏ gọi là ngựa khứu, đen pha nhiều đỏ gọi là ngựa hởi, đen pha đỏ tươi là ngựa vang, lông màu đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, trắng đen pha chút đỏ là ngựa đạm, lông tím đỏ pha đen thì gọi là ngựa tía, trắng sọc đen là ngựa vằn, ngoài ra còn có ngựa xám, ngựa đỏ, ngựa bích.

Màu sắc lông ngựa được ghi lại trong sách Trung Quốc có 20 loại ngựa trên cơ sở sắc màu của chúng. Ở Việt Nam một số quan niệm phân định 14 loại sắc lông ngựa gồm: Ngựa Hạc; Ngựa Hởi; Ngựa Kim; Ngựa Ô; Ngựa Hồng; Ngựa Tía; Ngựa Ðạm; Ngựa Khứu; Ngựa Chuy; Ngựa Séo; Ngựa Bích; Ngựa Qua; Ngựa Phiếu; Ngựa Thông.

Ở ngựa có bốn màu sắc chính:

  • Ngựa đen (ngựa ô): đen đậm, đen nhạt, đen loang (ô Chuy).
  • Ngựa hồng (hồng mã): tía, vàng đậm nâu, nâu nhạt, hạt dẻ, sôcôla, sôcôla nhạt.
  • Ngựa xám: xám đậm, xám nhạt, xám trắng.
  • Ngựa bạch: trắng tuyền hoặc trắng ánh kim, màu trắng tuyền (WW) là trội so với các màu tuyền khác. Vì vậy khi con vật có mảng trắng trên nền đen, nền nâu thì màu trắng xem ra có vẻ lấn át nên các loại ngựa ấy được gọi là trắng xám, trắng hồng, chấm trắng, lang trắng có thể không rộng lắm trên cơ thể nhưng cũng thường thấy ở mũi, mí mắt, phần dưới tứ chi, bờm, đuôi.

Màu lông cơ bản có ba loại:

  • Màu đen: đặc trưng của nó là thân đen và đuôi đen, phần dưới tứ chi cũng đều là màu đen, ngọn lông có màu rỉ sét, dưới ánh mặt trời nó giống màu đỏ đen.
  • Lưu mao: Là những giống ngựa có đặc trưng của nó là đuôi và phần dưới tứ chi có màu đen, lông từ màu vàng chuyển sang đỏ, màu nâu đen thay đổi, ngựa màu nâu đen gọi là ngựa Hắc Lưu, có khi mức độ đen giống màu đen ở đuôi, nhưng màu sắc lông ở quanh miệng, mũi, mắt, đặc biệt là màu ở đường giữa chân sau có màu lông nhạt hơn, vẫn có thể phân biệt được với màu đen.
  • Màu hạt dẻ (chesnut): đặc trưng là lông có màu từ màu vàng chuyển sang đỏ nâu, đuôi và phần dưới tứ chi có màu sắc giống như vậy, nhưng nhạt hơn.

Ngoài ra còn có hai màu lông thường gặp: màu cát, màu trắng.

  • Màu cát có hai loại: một loại là màu lông này duy trì suốt đời. Một loại là màu lông cát nhưng khi già đi sẽ chuyển thành màu trắng, càng già số lượng lông trắng càng nhiều lên, đến khi 12 tuổi, có thể toàn thân sẽ chuyển thành màu trắng.
  • Lông trắng có hai loại, một là trong suốt, lông và da đều không có sắc tố, di truyền lặn, một loại khác là mắt và miệng có sắc tố, biểu hiện trắng trội, những chỗ khác đều không có sắc tố. Màu trắng cũng thay đổi theo tuổi, thường thấy ở ngựa trung niên, hóa ra xám khi già hơn. Khi nhỏ, ngựa có lông xám có màu đậm hơn, khi lớn có màu sáng hơn, trắng hơn, nhưng vẫn giữ màu đen ở chân lông.
  • Ngựa bạch cũng có ba loại bạch hồng, bạch kim và bạch nhạn. Điểm cốt yếu để phân biệt giữa ngựa bạch và ngựa thường đó là đôi mắt và móng ngựa. Đôi mắt ngựa bạch thuần chủng trông như hòn bi ve, móng ngựa bạch cũng phủ một màu trắng và toàn thân không có một chấm đen[7] Toàn thân có màu trắng, mắt hồng và trong như viên bi ve, nếu đang đi ngoài đường vào chính Ngọ (12 giờ) nó sẽ khựng lại một lúc.
  • Ngựa hoang duy nhất còn tồn tại ngày nay là ngựa hoang Mông Cổ hay còn gọi là ngựa hoang Przewalski (nay thường xuất hiện ở vùng Tân Cương Trung Quốc hoặc vùng Trung Á, Tây Á, Liên Xô Cũ), lông mao loài ngựa này có màu đen và dài.

Loài ngựa hầu hết đều có cùng một màu sắc trong suốt cuộc đời, chỉ có một số ít thay đổi sau nhiều năm phát triển tạo ra một màu lông khác với lúc nguyên thủy sinh ra. Hầu hết các mảng màu trắng lúc mới sinh, và màu da cơ bản của một con ngựa sẽ không thay đổi. Theo cơ bản của di truyền về màu lông ngựa và với xét nghiệm trong DNA để xác định khả năng một con ngựa khi sinh ra sẽ có một màu nhất định, cho nên các nhà nghiên cứu lấy màu lông ngựa để phân biệt giống.

Tuy nhiên sau nhiều năm phát triển lại có thêm một số màu sắc khác. Đó chính là vấn đề hiện nay vẫn còn thảo luận, nghiên cứu, thậm chí vẫn còn tiếp tục tranh cãi về một số chi tiết, đặc biệt là những con ngựa với mô hình đốm, màu sắc như “sooty” hay “flaxen. Về di truyền, thì tất cả những con ngựa bắt đầu sinh ra với màu hạt dẻ mà các nhà di truyền học gọi là "màu đỏ", lý do vì sự vắng mặt của gen ("e"), hoặc đen của gen ("E") hoa. Vì vậy, màu đỏ gọi là gen ("ee") và đen ("EE" hoặc "Ee") là hai màu cơ bản. Trong phạm vi rộng lớn của tất cả các màu lông khác được tạo ra bởi hành động bổ sung gen.

Con ngựa trắng khi sinh ra không phải là màu trắng. Lúc đầu với mái tóc đen sau đó mất dần đổi sang màu trắng, thông thường tóc ngựa chuyển sang màu trắng tinh khiết giữa khoảng 6-8 tuổi. Con ngựa trắng thường được gọi là ngựa màu xám bởi vì màu sắc sẽ biến đổi theo một quá trình lão hóa. Màu da bình thường của con ngựa là màu đen, tóc trắng cho nên chúng ta nhìn nó giống như là màu xám. Nhiều con ngựa màu xám bị đổi màu da, một số lốm đốm và một số có vệt màu đỏ gọi là "blood marks" tức là "dấu máu.".

Một số cá thể ngựa có màu lông đặc biệt khác được lưu truyền qua tiểu thuyết, sử sách như màu Xích hay còn gọi là sắc lông màu đỏ (nổi tiếng nhất là con ngựa Xích Thố). Màu Ô, màu Ly là ngựa có sắc lông màu đen (chẳng hạn như con ngựa Ô Truy của Hạng Võ), ngựa Phiêu là ngựa có sắc lông xanh trắng (Phiêu Kỵ tướng quân). Lạc là ngựa vằn (Lạc mã thiên lý vương). Tinh là ngựa hồng (Song vĩ tinh còn gọi là Song vĩ hồng là con ngựa hồng hai đuôi của Lý Thường Kiệt).

Ở ngựa có các màu lông cơ bản là hạt dẻ, hồng và đen. Sự dịch chuyển màu của ba màu cơ bản là do hiệu quả tương tác của các alen cùng xuất hiện. Có 13 alleles khác nhau chi phối màu sắc và sọc của lông ngựa. Màu căn bản “đỏ” (chestnut) hay còn gọi là màu hồng và “đen” (còn gọi là ô, đạm, khứu) chi phối bởi Melanocortin 1 receptor, theo đó màu “đỏ” mang liệt tính, và “đen” ưu tính. Ngoài ra, còn có nhiều gen khác làm giảm bớt ưu tính của “đen”, nên tạo ra một dải màu từ đen đậm (ô) đến xám. Đối với ngựa một số đột biến khác nhau quy định cho những màu lông chính đã được phân lập. Màu hạt dẻ, màu hồng và đen được xác định bởi bốn alen, hai trong số đó thuộc locut Extension (E), hai alen còn lại thuộc locut Agouti (A).

Màu hạt dẻ và đen là kiểu di truyền lặn (Ee. Ee và Aa. Aa), màu hạt dẻ lấn át màu đen. Do đó màu đen chỉ biểu hiện khi kiểu gen Extension khác với kiểu gen Ee. Ee. Trong gen MC1R, đầu tiên đã phân lập được alen e quy định màu hạt dẻ của ngựa là do đột biến nucleotide đơn, phân lập alen thứ hai là ea quy định màu hạt dẻ. Trong phân tích gen ASIP, thông báo đột biến mất 11 bp được phát hiện ở dạng đồng hợp tử hoàn toàn có liên quan tới ngựa mang kiểu gen lặn màu lông đen. Màu hồng là kết quả của tổ hợp Aa ở locut A và các alen Ee/EE ở locut E.

Các gen ảnh hưởng đến màu lông và da của động vật có vú có thể chia làm hai nhóm chính: Một nhóm tác động về tổng hợp các sắc tố, một nhóm tác động vào các tế bào sinh ra sắc tố. gen quy định màu trắng là gen trội W, khi tổ hợp gen là Ww ngựa sẽ có màu lông trắng toàn thân, da hồng, mắt nâu hoặc xanh. Nếu ngựa cái trắng này lai với ngựa đực màu sẽ cho đời con 50% màu trắng (Ww), 25% ngựa màu (ww) và 25% (WW) sẽ chết thai. Tổ hợp gen gây chết (WW) đã được phát hiện từ năm 1953 và đã được khẳng định năm 1969.

Các gen kiểm soát màu lông ngựa, các alen hay marker chức năng mới được phát hiện ở mức phân tử ADN. Ở ngựa sự có mặt của 2 gen trội A và B cùng kiểu gen quy định lông xám, gen A có khả năng đình chỉ hoạt động của gen B nên gen B cho lông màu đen khi không đứng cùng với gen A trong kiểu gen. Ngựa mang 2 cặp gen đồng hợp lặn cho kiểu hình lông hung. Các gen phân li độc lập trong quá trình di truyền.Gen A có khả năng đình chỉ hoạt động của gen B, gen B chỉ biểu hện kiểu hình khi không đứng cùng với gen A trong cùng 1 kiểu gen. Gen A át chế hoạt động của gen trội B. Tính trạng màu lông ngựa là kết quả của hiện tượng tương tác át chế.

Việc phân tích kiểu gen liên quan tới màu lông ngựa nhằm phát hiện được mối liên quan của kiểu gen với một số màu sắc cơ bản của ngựa, với sự phát triển của các kỹ thuật trong nghiên cứu về gen, có thể xác định được các kiểu gen liên quan tới màu lông ở ngựa. Số lượng alen của gen KIT của ngựa được mô tả đến mức độ phân tử là nhiều hơn bất kỳ các gen nào khác ở các loài vật nuôi khác. Việc sử dụng các kỹ thuật di truyền phân tử như giải trình tự gen, PCR-RFLP đã xác định được các kiểu gen quy định các màu sắc lông khác nhau ở ngựa.

ngựa vằn, các tế bào melanocyte quyết định màu sắc của chúng, các tế bào sắc tố này trong giai đoạn phôi thai của ngựa vằn, màu đen của ngựa vằn là kết quả của kích hoạt sắc tố bởi tế bào melanocyte, trong khi đó màu trắng là kết quả của sự ức chế sắc tố, màu đen chính là màu sắc chính của loài ngựa vằn, còn các sọc trắng là kết quả của sự ức chế các tế bào melanocyte khiến cho chúng không tạo ra được màu đen và do đó có các sọc trắng. Trong suốt quá trình tiến hóa, để tránh cái nắng oi bức của châu Phi (sọc vằn có thể tạo ra các dòng đối lưu nhiệt trong vùng không khí xung quanh cơ thể con ngựa, không khí chuyển động nhanh hơn trên vùng sọc màu đen, hấp thụ ánh sáng chậm hơn trên sọc màu trắng, và tạo ra luồng không khí làm mát), cũng như để ngụy trang, đánh lạc hướng kẻ thù (làm lóa mắt những kẻ thù săn mồi, tạo ra ra ảo giác che giấu cử động của một con ngựa vằn và còn giúp chúng xua đuổi côn trùng, ruồi ngựa), từ loài có một màu mà ngựa vằn đã tiến hóa để có thêm các sọc đen trắng[8].

Màu lông dê

Bài chi tiết: Giống dêNuôi dê
Màu lông của một con dê nhà ở châu Phi

Dê cũng là giống vật nuôi có nhiều màu sắc lông. Lông tơ, lông, da, lông mao là tính trạng kinh tế quan trọng ở dê, cũng là một trong những tiêu chí nhận biết cá thể, di truyền chủng loài. Kiểu hình biểu hiện của màu lông dê chủ yếu có màu trắng, màu đen, màu xám (xám đậm đến xám nhạt), màu nâu, biến dị màu lông chủ yếu ở dê là do số ít gen quy định, tuân theo định luật Melden. Nghiên cứu trên đàn dê châu Âu, Tây ÁĐông Nam Á cho thấy, biến dị màu lông dê chủ yếu được quy định 4 quỹ tích gen: quỹ tích hoang (A), nhân tử màu lông pha loãng (D), trắng thượng vị (I), đốm trắng (S).

Di truyền màu lông dê cũng phức tạp, thường lấy màu trắng làm cơ sở, lấy các cá thể màu khác giao phối với cá thể màu trắng. Lông có màu ở dê do nhiều alen trên nhiều điểm gen điều khiển, quy luật di truyền của nó phù hợp với định luật Melden, nhưng màu lông dê lại chịu ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, ở các giai đoạn khác nhau có sự thay đổi khác nhau. Dê non thuộc giống dê Karakul mới sinh ra có màu lông đen, lớn lên chút màu lông trở thành màu nâu đen hoặc màu nâu. Trong công tác gây giống loài dê, mục đích chọn lựa màu lông là chọn màu đảm bảo giá trị kinh tế, loại bỏ các màu lông ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của sản phẩm. Hiện nay, đã sử dụng gen màu lông khác nhau để cải tạo giống dê quý.

Màu lông cừu

Một con cừu lông trắng điển hình

Cừu cũng là giống vật nuôi được chọn lọc đa sắc ở các cá thể cừu, nhìn chung màu trắng là màu truyền thống nhưng thỉnh thoảng cũng có những cá thể cừu đen chen vào. Tính trạng chất lượng cừu về mặt di truyền được quy định bởi một hoặc vài cặp gen, biểu hiện của nó hoàn toàn giống với nguyên lý di truyền Melden. Nắm rõ tính quy luật của di truyền tính trạng chất lượng, có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc dự đoán kết quả tai giữa các dòng và xây dựng phương án gây giống cừu.

Màu lông cừu thường có 16 kiểu điển hình là: trắng, đen, nâu, xám, nhiều màu và màu loang lổ. Màu lông cừu (len cừu) thường có hai cấu tạo: từ các sợi lông màu khác nhau, sợi màu đen và sợi màu trắng với tỉ lệ khác nhau tạo thành màu xám với mức độ khác nhau, hai là cấu tạo lông ở các vùng màu khác nhau, như màu vàng nhạt ở đầu hoặc đuôi và màu nâu ở các bộ phận cơ bản tạo thành màu hỗn hợp, quỹ tích gen quy định màu lông cừu gồm có 11 gen. Màu len cừu có ý nghĩa trong thị hiếu tiêu dùng.

Năm 1988, ủy ban nghiên cứu về cừu là COGNOSAG đưa ra tên màu lông, quỹ tích gen, số lượng alen và hiệu ứng gen. Màu lông cừu được quy định bởi nhiều alen trên nhiều điểm gen. Màu lông loang lổ luôn là tính trạng cần bị loại bỏ trong việc gây giống cừu lông dày (fine-wool) và cừu bán lông (semi-wool), loại bỏ lông màu là nội dung quan trọng trong công tác phối giống cừu lấy lông. Trước đây, khi Trung Quốc (là một trong những nước nuôi nhiều cừu) tiến hành gây giống rộng rãi cừu lai, đã chú trọng vào việc ngăn ngừa sự phát tán của lông màu, mấy năm gần đây, ở các nước đã bắt đầu gây giống cừu có màu.

Một giống cừu nổi tiếng thế giới về len cừu là cừu Merino châu Úc có gen W trội (gen màu trắng), w là gen lặn (màu đen), kiểu hình gen của cá thể cừu trắng toàn thân là WW hoặc Ww, cá thể màu đen là ww. Đốm được quy định bởi gen đốm sp, kiểu hình gen của nó là Sps p hoặc sps p. chọn giống cừu Merino lông màu chủ yếu là đem lai giống có màu lông màu trong lớp lông với cừu Merino, hoặc đem lai cá thể có đốm màu ở đầu, tai, mắt, bốn chân với cừu Merino, thế hệ sau sẽ được cá thể mang gen lông màu, từ đó xây dựng đàn giống.

lợn nhà

Bài chi tiết: Giống lợnNuôi lợn
Lợn bạch
Những con lợn bạch châu Âu với lông và da trắng hồng, những giống lợn trắng công nghiệp ngày nay được ưa chuộng, ở Việt Nam có chủ trương trắng hóa đàn lợn, thay thế những con lợn đen bản địa.
Một con lợn mặt nhăn (lợn Meishan) lông đen, chúng vẫn còn được ưa chuộng một số nơi ở Trung Quốc, Việt Nam

Di truyền và chọn lựa màu lông ở lợn trắng rất quan trọng trong việc chăn nuôi lợn thịt. Màu lông lợn chủ yếu có bảy loại hình là màu lợn hoang (màu nâu xám trắng), lợn đen, lợn đỏ (lợn hung), đốm đen domino, đốm đen hoặc đốm đỏ, đen chấm trắng, chấm đỏ. Gen quy định màu lông lợn có ba loại: màu trắng trội (điểm I), khuếch tán màu lông (điểm E), dây vai trắng (điểm Be), đầu trắng (điểm He), điểm kiểu hình hoang dã (A), điểm nhạt (D) và điểm trắng bạch (C). Gen màu trắng trội át gen màu (đen, đ), gen màu đen trội át gen màu đỏ và trắng bạch di truyền tính trạng chất lượng ở đàn lợn.

Thế hệ F1 con lai giữa loài màu trắng và một số loại lợn địa phương màu đen cơ bản sẽ cho ra con lai màu trắng, nhưng cũng có nhiều trường hợp con lai sẽ có màu da xanh hoặc đốm đen. Màu lông của lợn hoang không trội hoàn toàn đối với màu đen và màu đỏ. Lợn Trường Bạch và đều là loài lông trắng, màu trắng ở lợn loại này được quyết định bởi gen I. Đem lai lợn Trường Bạch và các giống lợn đen, đốm, nâu, thế hệ con thường có màu lông trắng, tức màu trắng trội át các màu; màu lông lợn Trường Bạch trội át màu lông đốm ở lợn màu đốm, nhưng lợn Trường Bạch và lợn thường Đông Bắc màu đen khi lai với nhau sẽ cho con lai đốm đen hoặc da xanh.

Lợn trắng khi thịt ra trông sẽ đẹp hơn, được người tiêu dùng ưa chuộng, đồng thời màu lông cũng thường là đối tượng nghiên cứu. như đem lai lợn Berkshirelợn đại bạch (LargeBlack-whitepig), khi màu lông của con lai gần giống với màu lông lợn đại bạch, số lượng Litter gần bằng của lợn đại bạch. Khi tăng tỷ lệ huyết thống của lợn Berkshire, màu lông con lai sẽ gần giống với giống lợn Berkshire, con lai loại này sẽ có ít Litter, gần giống loài lợn Berkshire. Vì thế, khi đem lai các giống lợn khác nhau và tạo ra giống mới, có thể căn cứ vào di truyền màu lông để phán đoán bước đầu tính di truyền về chất lượng cải tạo giống ban đầu. Điều này rất quan trọng trong việc chọn giống.

Chẳng hạn như màu lông và đặc trưng hình thể của lợn địa phương Trung Quốc thì lợn địa phương Trung Quốc được chia thành sáu loại dựa theo các tiêu chí ngoại hình, tính năng sinh sản (khả năng xuất tinh, phối giống của lợn đực và sự mắn đẻ của lợn nái).

  • Lợn Hoa Bắc: Giống lợn này có lông màu đen, đôi lúc phần đuôi có đốm trắng, cơ thể lớn, bốn chân thô và to, mõm dài.
  • Lợn Hoa Nam: Giống lợn này có lông màu đen trắng, đầu và vai chủ yếu là màu đen, bụng màu trắng, cơ thể nhỏ, lưng và bụng rộng, ngực lớn và trĩu xuống.
  • Lợn Hoa Trung: Giống lợn này có lông màu đen trắng, đuôi màu đen, cơ thể có nhiều đốm đen có kích thước khác nhau, có con toàn thân màu đen, thân lớn hơn lợn Hoa Nam, ví dụ như lợn Kim Hoa và lợn Hoa Trung.
  • Lợn Giang Hải: màu lông giống lợn này có liên quan đến phân bố của chúng, từ hạ du Hàn Thủy, Trường Giang đến vùng ven biển Đông Nam, có rất ít con trắng muốt. xương to thô, da dày và nhiều nếp nhăn, tai to rủ xuống.
  • Lợn Tây Nam: Giống này chủ yếu màu đen, nhưng có một số ít là màu đen điểm trắng, số ít là lợn lông đỏ, loài này có đầu to, dưới cằm có lông.
  • Lợn cao nguyên: Loài này chủ yếu có màu lông đen, một số ít có màu đen điểm trắng và màu đỏ. Đầu nhỏ dài, tai nhỏ và dựng đứng, nhìn giống lợn rừng.
  • Ngoài ra, còn có lợn Ô Kim phân bố tai vùng núi Ô Mông, và ở một số vùng núi, chúng có màu lông đen vàng, là giống lợn duy nhất của Trung Quốc có màu lông đỏ.

Những màu lông và ngoại hình của các giống lợn nuôi

  • Giống lợn trắng lớn: gây giống loại này phải lấy bốn giống lợn trắng: lợn Liên Xô (lợn Đại Bạch), lợn Trường Bạch, lợn Yorkshire loại trung (Midle) và Yorkshire loại lớn làm con cha, con mẹ có thể dùng 17 giống lợn địa phương Trung Quốc. Gây giống kiểu này sẽ cho ra con lai màu lông trắng hoàn toàn, da có một vài đốm đen (lợn Tân Hoài có màu đen tuyền).
  • Giống lục bạch: giống lợn này chủ yếu được lai từ con bố Berkshire và các giống lợn địa phương. Con lai loại này sẽ có màu chủ đạo là đen, nhưng cũng có một số con có màu “lục bạch” hoặc đặc trưng không lục bạch hoàn toàn, như lợn Tân Kim, lợn Định Huyện, lợn đen Cát Lâmlợn đen Ninh An.
  • Giống đen đốm trắng: giống lợn này chủ yếu được lai từ Berkshire và lợn đại bạch Liên Xô. Giống lợn này chủ yếu có màu đen đốm trắng hoặc trắng đốm đen.

Trong công tác lai giống, màu lông thống nhất và hình dạng tai thuộc tính trạng chất lượng đơn giản trong phương thức di truyền, cần phải nắm rõ hệ phổ hoàn chỉnh và ghi chép giao phối, thông qua xác định phán đoán chính xác kiểu hình gen của lợn đực, tiến hành lai liên tục nhiều thế hệ mới có thể làm kiểu hình tính trạng này đạt đến mức đồng hợp. Sau khi đồng hợp kiểu hình gen, mới có thể làm cho tính nhất quán của kiểu hình biểu hiện có nền tảng đáng tin cậy.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Màu sắc động vật http://www.zoology.ubc.ca/~otto/PopGen500/Discussi... http://animals.howstuffworks.com/animal-facts/anim... http://www.nytimes.com/2005/03/15/science/15blue.h... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1422807 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/5700268 http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/10-con-vat-c... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/loai-con-tru... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/mau-long-cho... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nhung-con-tr... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nhung-dieu-t...